Thông tin mới nhất từ AAC

AAC (news): IELTS, TOEIC, Tiếng anh, trẻ em, thiếu niên, người lớn, trung tâm tại Hà Nội

Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2011

Đêm hội Halloween 2011 với Tập đoàn ngôn ngữ và kỹ năng ACC

Vào 19h45 thứ 7, 29/10/2011 tới đây, tại Tập đoàn Ngôn ngữ & Kỹ năng AAC (65 Quán Sứ, HN) sẽ diễn ra đêm hội Halloween mang tên: "AAC HalloScream Party 2011 - How to survive the nightmare at the Cemetery".


Chương trình nhiều kịch tính, hứa hẹn sẽ mang đến cho mọi người một cảm giác “vừa buồn cười vừa sợ”.
Ngoài việc toàn bộ không gian được trang trí theo chủ đề nói trên và các trò chơi “cười ra nước mắt”, AAC HalloScream Party 2011 còn được bật mí sẽ có màn “phù thủy xem bói” cho một số bạn trẻ may mắn, những màn vũ điệu sôi động với nhóm nhảy CAP, rock show hoành tráng với ban nhạc Nu Voltage.


Một điểm nhấn nữa của chương trình chính là phần xem phim ngắn “How to survive the nightmare at the Cemetery” mà một thành viên ban tổ chức đã bật mí:
Bạn đã từng xem phim 3D, 4D. Cảm giác của bạn thế nào? Hãy tưởng tượng rằng “How to survive the nightmare at the Cemetery” còn có nhiều D hơn thế!
Còn đợi gì nữa, các bạn hãy liên hệ ngay để tham gia (số lượng vé có hạn):
Tập Đoàn Ngôn Ngữ & Kỹ Năng AAC
65 Quán Sứ, Hoàn Kiếm, Hà Nội

04. 3942 6725 / 3942 6726
info@aac.edu.vn

www.aac.edu.vn

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

Tại sao không nói “Nhóm máu” là “Blood kind”?

Trong tiếng Anh, trong hầu hết các trường hợp, 3 từ Kind, SortType đều có thể dùng thay cho lẫn nhau. Tuy nhiên, có những trường hợp mà chỉ dùng được từ này và lại không dùng được từ khác.
John & Linh: Xin chào các bạn!
John: John & Linh đã nhận được khá nhiều thư gửi về hòm thư john.linh@aac.edu.vn có cùng chia sẻ thắc mắc về cách phân biệt giữa Kind/Sort/Type.
Linh: Thực ra, trong hầu hết các trường hợp, 3 từ này đều có thể dùng thay cho lẫn nhau. Nói như vậy không có nghĩa là không có những sự khác nhau nhất định. Có những trường hợp mà chỉ dùng được từ này và lại không dùng được từ khác, ví dụ như Blood type: Nhóm máu - Không thể dùng Blood kind/sort được.
John: Các bạn lưu ý rằng:
-         Sort: Thường nói về những đặc tính nói chung hơn là những chủng loại được đặt tên.
-         Type:  Có xu hướng được sử dụng với ý nói về những chủng loại rõ ràng, có tên gọi.
-         Kind: Nằm ở giữa 2 trường hợp trên, thường được dùng cho các chủng loài, loại vật nói chung và lớn.
Linh: Nghe như vậy có lẽ vẫn hơi khó hiểu, chúng ta hãy xét vào các ví dụ:
-         What sort of prices do they charge there? Giá cả ở đó như thế nào nhỉ?
(Ý muốn kể rõ thông tin về các mức giá tại cửa hàng đó, yêu cầu miêu tả về các “đặc tính về giá cả”)
-         Blood type: Nhóm máu có tên gọi rõ ràng (nhóm A, nhóm B…)
-         I heard that you just bought a new car. What kind?
(Có thể trả lời rằng đó là một chiếc Mercedes E200 - chủng loại rõ ràng, có tên. Cũng có thể trả lời bằng cách miêu tả các đặc điểm của nó như “một chiếc xe bán tải, màu ghi xám, đời 2010”)
-         Type of room: Loại phòng có tên gọi rõ ràng (Loại A, loại B hay loại Standard, loại Deluxe…)
John: Có một cách dùng Sort và Kind mà không mang nghĩa như ở trên, đó là khi dùng Sort of và Kind of như là một cụm từ thêm vào, chỉ ra cho người nghe thấy rằng người nói có một chút gì đó không chắc chắn lắm về lời nói của mình hoặc rằng họ không đề cập đến một điều gì đó chính xác mà chỉ đưa ra một ý tưởng nói chung. Dịch ra tiếng Việt thường có thể dịch thành “kiểu như”.
Linh: Sort of và Kind of dùng với cách này có thể đặt ở nhiều vị trí khác nhau trong câu để bổ trợ cho tính từ, động từ hay một mệnh đề.
John: Để dễ hiểu hơn, hãy xét các ví dụ:
-         What do you think about the show? (Anh nghĩ gì về buổi diễn?)
A:         I don’t know, I don’t know much about rock… To me, it was kind of just noise!
(Tôi không biết nữa, tôi không biết nhiều về nhạc rock… Đối với tôi mà nói thì nó kiểu như là chỉ toàn tiếng ồn mà thôi!)
B:         Yeah, it was fun. I sort of sang along the whole time!
(Vâng, thú vị lắm. Tôi gần như là hát theo suốt cả buổi!)

Linh: Sort of và Kind of, tương tự, cũng được dùng để lấp vào những khoảng trống trong giao tiếp, giúp người nói có thêm chút thời gian để nghĩ và nói thêm hoặc có thêm thời gian để tìm cách diễn đạt tốt nhất cho ý của mình:
-         What do you see when you look at her?
(Khi nhìn cô ấy, anh thấy gì?)
-         Well, I kind of… see my future… kind of… see the mother of my children…
(Ừ thì, tôi thấy… ừm… thấy tương lai của tôi… ừm… thấy mẹ của các con tôi…)
John: Nhưng đặc biệt lưu ý rằng, có thể dùng Sort of và Kind of thay thế cho nhau nhưng tuyệt đối không thể dùng Type of trong 2 trường hợp nói trên.
Linh: Hết chưa anh John?
John: Anh nghĩ là hết rồi, toát hết mồ hôi rồi đây này. À, John & Linh xin mách nhỏ các bạn nhé:
ISC-UKEAS đang có chương trình bốc thăm trúng thưởng với giải thưởng là một chiếc laptop sành điệu phục vụ cho việc học tập và giải trí. Để được bốc thăm, rất đơn giản, các bạn chỉ cần qua văn phòng của ISC-UKEAS để đăng ký tham dự Triển lãm Giáo dục Anh quốc là sẽ được bốc thăm ngay.

Linh: Các bạn còn chờ gì nữa!
John & Linh: Xin chào và hẹn gặp lại!

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2011

Học thành ngữ trong tiếng Anh

Trong tiếng Anh, việc sử dụng thành ngữ làm cho các cuộc hội thoại trở nên phong phú hơn, sắc thái tình cảm của người nói được truyền tải sắc nét hơn. Tuy nhiên, các thành ngữ rất đa dạng, lại thay đổi liên tục theo thời gian, được sử dụng theo thói quen của từng người.




Linh: Anh John ơi, trong số “vô vàn” thư gửi về hòm thư của chúng mình, có rất nhiều thư hỏi về Idiom - Thành ngữ. Ngoài việc hỏi về ý nghĩa và cách dùng của các thành ngữ, các bạn còn chia sẻ băn khoăn là có nên học các thành ngữ hay không và học để làm gì.



John: Xin chào các bạn! Trước tiên, John và Linh xin cám ơn các bạn đã tin tưởng và gửi thư về hòm thư john.linh@aac.edu.vn. Các bạn thân mến, việc sử dụng thành ngữ làm cho các cuộc hội thoại trở nên phong phú hơn, sắc thái tình cảm của người nói được truyền tải sắc nét hơn.



Tuy nhiên, các thành ngữ rất đa dạng, lại thay đổi liên tục theo thời gian, được sử dụng theo thói quen của từng người. Có những thành ngữ rất thịnh hành trong thập kỷ trước nhưng giờ lại không được sử dụng nữa. Có những thành ngữ không được sử dụng bởi người này những người khác lại vẫn còn sử dụng.



Chính vì vậy, việc học và cập nhật thành ngữ là việc nên làm, nó sẽ làm cho bạn yêu thích tiếng Anh hơn, hãy coi như đây là “điều kiện đủ”. Nhưng nếu như trình độ hoặc thời gian không cho phép thì các bạn cũng không “bắt buộc” phải tìm hiểu về thành ngữ mà chỉ cần chú trọng vào các kiến thức tiếng Anh cơ bản là được.



Linh: Nhân tiện đang nói về chủ đề này, chúng ta hãy cùng chia sẻ một vài thành ngữ, một vài cách diễn đạt hay với các bạn độc giả đi anh John.



Ý kiến hay đấy, Linh nghĩ ra chủ đề gì chưa?



Linh: Linh nghĩ ra rồi, thành ngữ và cách diễn đạt liên quan đến từ Now nhé.



Linh rất thích nghe bài hát Total Eclipse Of The Heart của Bonnie, trong bài hát có rất nhiều đoạn “Every now and then” mà hồi nhỏ dù đã biết chút tiếng Anh kha khá, Linh vẫn không biết là gì. Nhưng giờ thì đã biết Every now and then = sometimes, occasionally (thỉnh thoảng, không thường xuyên):



Turnaround, every now and then I get a little bit lonely and you're never coming round



Turnaround, every now and then I get a little bit tired of listening to the sound of my tears



John: Nhắc đến âm nhạc thì chắc hẳn mọi người đều biết đến ông vua nhạc Rock Elvis Presley và bài hát It’s now or never:



It's now or never, come hold me tight



Kiss me my darling, be mine tonight



Tomorrow will be too late, it's now or never



My love won't wait.



It’s now or never có nghĩa là bạn nên làm cái gì đó “luôn và ngay” bởi vì có thể bạn sẽ không có cơ hội nào nữa.



Linh: Anh John ơi, thay vì chỉ nói Good bye, Linh vẫn thấy người ta thường nói Good bye for now hay là Bye for now, có phải để người nghe hiểu rằng đó không chỉ là “Chào tạm biệt” mà còn là “Hẹn gặp lại” không?



John: Đúng rồi đó Linh, như vậy cũng là một kiểu chào tạm biệt để đỡ nhàm chán hơn.



Khi được mời hoặc đề nghị một việc hay một cái gì đó, nếu không muốn, chúng ta thường nói No, thanks! nhưng nếu việc không muốn này chỉ là tạm thời và nếu người ta mời hoặc đề nghị lại vào một thời điểm khác thì có thể chúng ta sẽ nhận thì Not right now, thanks là một lựa chọn rất phù hợp.



- You want a cup of coffee?



Not right now, thanks! (because I’ve just had one)



- Let’s grab a bite!



Not right now, thanks! (because I’ leaving for an appointment in 5 minutes)



Linh: Now you’re talking không dùng để diễn tả một hành động đang xảy ra theo quy tắc của thì hiện tại tiếp diễn mà người nói đang muốn ám chỉ rằng “Đấy, bây giờ mới nói được một câu nên hồn” (Now you are saying the right things):



- I’m tired of fooling around. I think it’s time to settle down!



Now you’re talking!



(Tớ đã thấy mệt mỏi khi cứ lêu lổng mãi rồi. Tớ nghĩ đã đến lúc phải ổn định cuộc sống rồi.



Bây giờ cậu mới nói được một câu nên hồn!)







John: Thay vì nói Right now (ngay lập tức), người ta cũng có thể dùng Right away với cùng ý nghĩa.



Linh: Just now không có nghĩa nói về “hiện tại, bây giờ” mà là nói về một khoảng thời gian rất ngắn trước hiện tại:



- Where’s Jane?



I have no idea! She was here just now.



(Jane đâu rồi?



Tớ chịu! Cô ấy vừa mới ở đây thôi mà.)



John: There, there hay There, now hoặc Now, now là cách bắt đầu một câu nói để làm dịu ai đó hoặc được dùng khi khuyên nhủ, dỗ dành ai đó. Nó tương tự như “nào nào” trong tiếng Việt vậy:



- There, there. Everything will be just fine! (Nào nào, mọi thứ sẽ ổn cả thôi mà!)



- Now, now. After the rain comes the sun! (Thôi nào, sau cơn mưa trời lại sáng thôi!)



Linh: Hy vọng rằng các bạn sẽ không chán sử dụng thành ngữ trong giao tiếp hàng ngày và từ đó thêm yêu thích tiếng Anh.



John & Linh: Xin chào và hẹn gặp lại!

Thứ Năm, 15 tháng 9, 2011

Cùng nói về mong muốn, “Wish” có gì khác với “Hope”?

HopeWish đều được sử dụng để biểu đạt mong muốn của người nói. Tuy nhiên Hope thể hiện sự tự tin, sự kỳ vọng rằng điều này sẽ có cơ sở trở thành sự thật. Wish thì thể hiện một sự mong muốn xa vời hơn, không có cơ sở để trở thành sự thật.
John: Thân chào các bạn! Trong tuần vừa rồi, hòm mail john.linh@aac.edu.vn đã bị nghẽn, chắc do có quá nhiều thư đổ về, hòm Spam thì luôn trong tình trạng “không còn chỗ trống” rồi.
Linh: Chính vì vậy mà có rất nhiều thư đã bị gửi trả lại, nếu bạn đọc nào gặp phải tình trạng này thì hãy thử gửi lại thư cho John và Linh nhé!
John: Hôm nay John & Linh xin tiếp tục trả lời thắc mắc của bạn đọc. Bây giờ là câu hỏi đến từ bạn Mai Linh và Le Dung ở địa chỉ linhmainguyen***@gmail.com và ltdung***@gmail.com:
I am so confused whether using "hope” or "wish”. For example: I should use "Hope we enjoy our lessons on Jonh & Linh column at Dan Tri website” or "Wish we enjoy our lessons on Jonh & Linh column at Dan Tri website”.
Linh: Bạn thân mến, trong ví dụ bạn nêu, phương án nên sử dụng là phương án đầu tiên với Hope.
John: Trong các tình huống tương tự ở trên, Hope và Wish đều được sử dụng để biểu đạt mong muốn của người nói. Tuy nhiên Hope thể hiện sự tự tin, sự kỳ vọng rằng điều này sẽ có cơ sở trở thành sự thật. Wish thì thể hiện một sự mong muốn xa vời hơn, không có cơ sở, không có sự tự tin để trở thành sự thật. Chính vì vậy mà Wish thường không được dùng với những tình huống có nhiều khả năng xảy ra trong tương lai.
Linh: Hope thường được sử dụng với mệnh đề ở thì hiện tại để biểu đạt ý tương lai:
-         I hope your wife comes back soon. (Tôi hy vọng/mong rằng vợ anh sẽ quay trở về sớm thôi) - Sử dụng Hope để nói lên sự tin tưởng rằng “vợ anh sẽ quay về sớm” vì anh là người chồng tốt, chỉ do sự hiểu lầm nhỏ mà vợ bỏ đi, sau khi suy nghĩ lại thì chị ta sẽ sớm trở về.
-         I hope you pass your exam tomorrow. (Tôi hy vọng/mong rằng bạn sẽ qua kỳ kiểm tra ngày mai) - Sử dụng Hope vì tôi biết rằng bạn học rất chăm chỉ, không có lý do gì để bạn không làm được bài cả.
 
John: Wish thường được sử dụng với những tình huống không có thật, không thể xảy ra hoặc hầu như không thể xảy ra:
-         It’s too hot! I wish it would rain right now! (Trời nóng quá đi mất! Ước gì mưa luôn lúc này thì tốt) – Dùng Wish vì trời đang nắng gắt, gần như không có cơ hội để trời mưa, đó gần như là điều không tưởng.
Linh: Wish còn được dùng để thể hiện sự tiếc nuối:
-         I wish that I was 10 years younger. (Ước gì tôi trẻ ra được 10 tuổi.) – Thể hiện sự tiếc nuối chứ thực chất không thể hiện mong muốn vì người nói cũng biết chắc rằng việc trẻ lại 10 tuổi là điều không thể xảy ra.
John: Tuy nhiên cũng có những trường hợp tương tự mà người nói muốn thể hiện một mong muốn khát khao mãnh liệt nào đó:
-         I wish I could break all the rules and live freely! (Ước gì tôi có thể phá tan hết các luật lệ và sống một cách tự do!) – Dùng Wish để thể hiện một mong muốn tột độ dù biết rằng không thể xảy ra.
Linh: Để biết người nói muốn truyền đạt sự hối tiếc hay muốn biểu đạt một khát khao mãnh liệt thì cần căn cứ vào tình huống và quan trọng nhất là giọng điệu khi nói.
John: Đó là khi Wish dùng với một mệnh đề, khi dùng với một danh từ/cụm danh từ thì Wish chỉ đơn thuần là một sự cầu chúc tốt lành dành cho người khác:
-         We wish you a Merry Christmas! - Giáng Sinh vui vẻ!
-         Wish you a New Year full of happiness! - Chúc bạn có một năm mới tràn đầy hạnh phúc!
Linh: Khi Wish dùng với động từ nguyên thể có “to”, đơn giản nó chỉ là một cách nói lịch sự, trang trọng hơn để thay thế cho Want mà thôi:
-         I wish to speak to the Lieutenant, please! (Tôi muốn nói chuyện với ngài Đại Úy)
-         We do not wish that to happen! (Chúng tôi không mong muốn chuyện đó xảy ra đâu đấy nhé!)
John: Đó là tất cả những gì mà hiện tại John & Linh có thể nghĩ ra, mong rằng đã giải đáp được thắc mắc của bạn Linh, bạn Dung và cũng mong rằng tất cả các bạn không còn băn khoăn khi sử dụng 2 từ này nữa.
Linh: Hãy nhớ rằng việc học phải đi đôi với hành, hãy sử dụng tiếng Anh thường xuyên nhé.
Bạn Ngoc Anh ở địa chỉ ngocanhtran***@rocketmail.com có hỏi: “Làm thế nào để em đạt được 700 điểm TOEIC?”.
Bạn Ngoc Anh thân mến, để đạt được một số điểm nào đó thì cần phải căn cứ vào trình độ hiện tại và thời gian mà bạn có để có thể có kế hoạch học tập tương ứng. Để nâng cao thêm một chút số điểm của mình, cũng có một số lời khuyên và một số kỹ thuật của các bạn đi trước hoặc của thầy cô giáo có kinh nghiệm “trong nghề” mà các bạn có thể áp dụng.
Tóm lại, bạn hãy làm một bài kiểm tra để biết được thực lực của mình, sau đó nhờ những người có chuyên môn cố vấn thêm về kế hoạch học tập để đạt được điểm số đề ra. Quan trọng là phải kiên trì tuân thủ kế hoạch học tập ấy.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm từ bạn bè và các thầy cô chuyên dạy TOEIC.
 
Bạn có thể đăng ký kiểm tra TOEIC tại AAC và nếu bạn đăng ký học TOEIC tại đây từ nay đến hết 20/09/2011, bạn sẽ được giảm 50% học phí.
Chúc bạn thành công!
John & Linh: Xin chào và hẹn gặp lại!

Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2011

Tặng 2.100.000đ cho khóa luyện TOEIC

Hiện nay, TOEIC đã trở nên khá phổ biến, nhất là đối với các bạn sinh viên sắp ra trường và mới ra trường. Nhưng học TOEIC để làm gì và làm sao để đạt hiệu quả cao vẫn là thắc mắc chung của nhiều người.
Chúng tôi đã có buổi trao đổi về vấn đề này với đại diện của Tập đoàn Ngôn ngữ & Kỹ năng AAC (65 Quán Sứ, Hà Nội) - một trong những tổ chức uy tín nhất trong đào tạo tiếng Anh nói chung và luyện thi TOEIC nói riêng:

TOEIC là viết tắt của Test Of English for International Communication - là một chương trình thi cấp chứng chỉ nhằm đánh giá khả năng giao tiếp tiếng Anh trong môi trường quốc tế. Đây là một chương trình rất uy tín do Viện Khảo thí Giáo dục Hoa Kỳ (ETS) xây dựng và quản lý, chứng chỉ TOEIC thường được sử dụng như một “điều kiện cần” đối với nhân sự thời hiện đại.
Ngoài rất nhiều tổ chức quốc tế, cơ quan nhà nước hay doanh nghiệp thì ngày nay cũng có một số trường đại học áp dụng chứng chỉ TOEIC ở một thang điểm nhất định làm điều kiện để xét tốt nghiệp.
Thêm vào, TOEIC cũng có những điểm thuận lợi khác như một tháng thường có 2 kỳ thi nên thí sinh không phải chờ đợi lâu, lệ phí thi thấp hơn rất nhiều so với các chứng chỉ quốc tế khác.
Chính vì vậy mà nhu cầu học và thi TOEIC hiện nay là rất lớn. Các bạn sinh viên sắp ra trường hay mới ra trường đều tìm đến TOEIC như một hành trang cho tương lai, người đi làm rồi thì cũng muốn có trong tay tấm bằng này để dễ bề thăng tiến trong công việc.

Vậy làm thế nào để học tốt TOEIC và thi đạt kết quả cao?
- Trước hết, bạn phải trang bị cho mình một vốn ngữ pháp và từ vựng tốt, đây chính là nền tảng cho tất cả các kỹ năng khác trong tiếng Anh. Tuy nhiên, phần lớn các bạn đều mắc phải một lỗi, đó là cố gắng nhồi nhét kiến thức trong một khoảng thời gian ngắn trước khi thi. Như vậy, vô hình trung, bạn đã làm cho “bộ xử lý trung tâm” của bạn bị quá tải, các kiến thức lộn xộn và không rõ ràng, không lưu giữ được lâu. Hãy học từ mới theo từng chủ đề, vừa giúp bạn dễ nhớ, vừa giúp bạn dễ dàng sử dụng, lại không gây nhàm chán trong quá trình học.
- Đừng nghĩ rằng việc bạn phát âm có chuẩn hay không là không quan trọng vì bài thi TOEIC không có phần nói. Bạn chỉ có thể nghe hiểu tốt khi mà bạn biết rõ từ đó được phát âm như thế nào, tức là chính bạn phải phát âm chuẩn được từ đó.
- Trước khi thi, bạn cần hiểu rõ về cấu trúc bài thi, phân bổ thời gian đồng đều tất cả các phần, đừng quá tập trung cho bất kể một phần nào, kể cả trong lúc ôn luyện hay trong lúc làm bài thi.
- Trong khi thi, không bao giờ để xảy ra tình trạng bạn không nghe kịp câu hỏi vì quá tập trung suy nghĩ về câu hỏi trước, như vậy sẽ thành một phản ứng dây chuyền và cả phần đó của bài thi hoặc trường hợp xấu nhất là cả bài thi của bạn cũng sẽ “không ra đâu vào đâu”.

- Và cuối cùng, nếu không biết câu trả lời nào là đúng, hãy đoán mò trong các câu trả lời mà bạn cho là hợp lý hơn cả. Có ít nhất 25% cơ hội là bạn sẽ đoán đúng câu trả lời đấy, đừng bỏ sót nhé.
- Hãy xác định mục tiêu về điểm TOEIC mà bạn cần đạt được, hãy lập kế hoạch học tập ngay từ bây giờ. Hãy đăng ký tham gia một lớp luyện thi nếu bạn có điều kiện. Các giảng viên có chuyên môn sẽ trang bị và luyện cho bạn các kỹ năng cần thiết để có thể vận dụng kiến thức của mình một cách hiệu quả nhất trong khi thi.

Hãy nhớ rằng nếu việc tự học hoàn toàn mang đến cho bạn hiệu quả cao nhất thì trên thế giới sẽ không còn nghề nào gọi là nghề “Giáo viên” nữa. Việc tự học chỉ là một sự bổ sung hoàn hảo sau những giờ học trên lớp mà thôi.
Chào đón năm học mới, Tập đoàn Ngôn ngữ & Kỹ năng AAC - 65 Quán Sứ dành tặng 100 suất học bổng 50% học phí khóa TOEIC trị giá 2.100.000đ cho các bạn học viên đăng ký sớm. Lưu ý, chỉ áp dụng đến hết 20/09/2011.
Hãy đăng ký học bổng hoặc ghé thăm trang web của Tập đoàn để biết thêm thông tin và được giải đáp mọi thắc mắc:
Tập đoàn Ngôn ngữ & Kỹ năng AAC
65 Quán Sứ, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Tel: 3942 6725 / 3942 6726

Thứ Ba, 6 tháng 9, 2011

Tết Trung Thu đáng nhớ cùng Vịt Donald

Trong những năm gần đây, việc tìm cho con em mình những sân chơi bổ ích và lành mạnh luôn là nỗi trăn trở của các vị phụ huynh, nhất là các vị phụ huynh có con nhỏ trong độ tuổi từ 5 đến 10.
Nhiều phụ huynh nghĩ tới việc mua vé cho con em mình xem xiếc, xem hài kịch như là một giải pháp tình thế để có thể bù đắp cho việc thiếu hụt sân chơi cho các em trong những dịp lễ này. Tuy nhiên, các buổi diễn luôn chật kín các em với giá vé không hề mềm chút nào lại càng ngày càng đi sâu vào những “chủ đề” mà các vị phụ huynh không mấy hứng thú cho con em mình xem và khai thác rất nhiều vào các câu chuyện “siêu nhân”, “người máy”, “cậu bé biến thể” và các màn đánh đấm, “tung chưởng”...


Rước đèn ông sao, sao năm cánh tươi màu...
Đến hẹn lại lên, cứ mỗi 30/4, 1/5 hay 1/6, Trung thu, các trung tâm vui chơi giải trí, các công viên lại chật ních khách ngay từ sáng sớm. Những ngày thứ Bảy, Chủ Nhật liền kề cũng là đỉnh điểm của sự hành xác. Không những các bố các mẹ mà ngay cả các con cũng phải chen lấn xô đẩy “kịch liệt” để được tham gia vào một trò chơi, một hoạt động nào đó.
Nhận được câu hỏi “Tại sao biết đông như vậy mà vẫn cố cho các con tham gia?”, các vị phụ huynh đều cười như mếu “Biết thế, nhưng chả nhẽ bạn nào cũng được đi chơi mà con mình thì lại không? Không có lựa chọn nào hơn thì đành vậy thôi.”


Đội văn nghệ “nhí”.
Tuy nhiên, nếu chịu khó tìm hiểu, các vị phụ huynh sẽ thấy rằng trong những dịp như thế này, thường vẫn có các đơn vị uy tín tổ chức các sự kiện miễn phí cho trẻ em nhưng truyền thông và quảng cáo không nhiều. Nắm bắt nhu cầu của các em cũng như mong muốn của phụ huynh, các sự kiện này thường được tổ chức rất chu đáo, đa dạng và đặc biệt là giới hạn số cháu tham gia, vừa đảm bảo “chất” vừa đảm bảo “lượng”.
Đơn cử như chương trình “Tết Trung Thu đáng nhớ cùng Vịt Donald” được tổ chức vào lúc 19h15 Chủ Nhật ngày 11/09/2011 tại Tập đoàn Ngôn ngữ & Kỹ năng AAC, 65 Quán Sứ, Hà Nội. Chương trình được tổ chức quy củ trong hội trường lớn tầng 2 của AAC, đảm bảo vấn đề an ninh cho các em và cũng đảm bảo các em vẫn có thể vui chơi bình thường dù ngoài trời có thể đang mưa lớn hoặc nóng gắt.


Cùng thử làm ảo thuật gia.
Đến với “Tết Trung Thu đáng nhớ cùng Vịt Donald” các bạn thiếu nhi (từ 5 đến 10 tuổi) sẽ được trực tiếp hòa mình vào không khí sôi động với các trò chơi, hoạt động đặc sắc như rước đèn, phá cỗ, cùng xem hề xiếc, xem biểu diễn đàn ghita, tham gia vào phần đố vui tiếng Anh có thưởng… Đặc biệt hơn nữa, các bạn nhỏ sẽ được gặp gỡ, giao lưu và chụp ảnh lưu niệm với chú Vịt Donald đáng yêu, nhân vật hoạt hình mà các bạn hết sức yêu thích.
Được biết, Tập đoàn Ngôn ngữ & Kỹ năng AAC là một trong những tổ chức uy tín nhất tại Hà Nội chuyên giảng dạy các khóa học tiếng Anh chất lượng cao cho đối tượng học viên ở mọi trình độ và độ tuổi. Các chương trình ngoại khóa do AAC tổ chức đều miễn phí nhưng lại được đầu tư rất kỹ càng trong công tác tổ chức cũng như nội dung chương trình.
Phụ huynh quan tâm có thể đăng ký vé miễn phí cho con em mình trước ngày 10/09/2011 tại của AAC - 65 Quán Sứ (ĐT: 3942 6725 / 3942 6726).
Thông tin thêm có thể tham khảo website: www.aac-edu.com.vn.


Trung Thu 2010 - Tập đoàn Ngôn ngữ & Kỹ năng AAC.

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2011

Phân biệt “Hear” và “Listen” trong tiếng Anh

Từ HearListen trong tiếng Anh đều có thể dịch là nghe. Để dịch chính xác thì phải căn cứ vào văn cảnh, tuy nhiên để dễ hiểu hơn về cách sử dụng của 2 từ này có thể tạm dịch Hear là nghe thấy và Listen là lắng nghe.
Linh: Thân chào các bạn! Sau một tuần dài, hôm nay John&Linh lại có cơ hội được nói chuyện với các bạn độc giả thân mến.
John: Các bạn có hài lòng với một tuần vừa rồi của mình không? Sắp tới cuối tuần rồi, lại sắp được nghỉ ngơi rồi.
Linh: Việc nghỉ ngơi là của thứ Bảy và Chủ Nhật, còn hôm nay nhiệm vụ của chúng ta là tiếp tục giải đáp thắc mắc của bạn đọc kia kìa anh John!
John: Anh đã “ý kiến ý cò” gì đâu mà chưa gì đã bị Linh “đá xoáy” rồi. Anh vẫn nhớ phải trả lời bạn Hoàng Phương ở địa chỉ ***hoangphuong@yahoo.co.uk:
“Anh chị giúp em phân biệt Hear và Listen nhé, em cám ơn nhiều nhiều!”
John: Bạn Phương thân mến, Hear và Listen đều có thể dịch là nghe. Trong tiếng Anh, để dịch chính xác thì phải căn cứ vào văn cảnh, tuy nhiên để dễ hiểu hơn về cách sử dụng của 2 từ này thì chúng ta hãy cứ tạm dịch Hear là nghe thấy và Listen là lắng nghe.
Linh: Anh John dịch như vậy hẳn các bạn cũng “vỡ” ra một chút rồi đúng không? Ở đây nếu không bàn về khía cạnh ngữ pháp mà chỉ bàn về khía cạnh nghĩa và tình huống sử dụng thì chúng ta chỉ cần lưu ý:
  • Hear - thể hiện tính thụ động
  • Listen - thể hiện tính chủ động
Thụ động có nghĩa là tự dưng nó đến, nhiều khi bạn không biết trước, không trông mong và không kiểm soát được. Chủ động có nghĩa là bạn muốn nghe cái gì đó, bạn lắng nghe nó với sự chú ý, bạn chọn lựa để nghe nó.
John: Nghe hơi máy móc nhỉ! Không sao, hãy xét các tình huống sau:
Ai đó nói và chợt bạn nghe thấy, đó là Hear. Bạn nghe thấy và dường như đó là người quen của bạn đang nói nên bạn lắng nghe xem có phải đúng là người quen của bạn không, đó là Listen.
Linh: Bạn nghe thấy tiếng xe cộ chạy qua, thật là ầm ĩ. Nhưng xe cộ chạy qua thì phải có tiếng rồi, đó là điều hiển nhiên, dù bạn có không muốn cũng phải nghe thấy. Đó là Hear. Bạn mở radio để nghe, vì bạn biết giờ này có chương trình ca nhạc mà bạn yêu thích và muốn nghe. Đó là Listen.
  • Did you hear what I just said? (Anh có nghe THẤY tôi vừa nói cái gì không?)
Sorry, I wasn’t listening. (Xin lỗi thầy, em đã không chú ý LẮNG nghe.)
  • Did you hear that? (Cậu có nghe THẤY không?)
What? (Cái gì cơ?)
That! Listen, it comes again! (Đó! LẮNG nghe mà xem, lại nữa đấy!)
  • I know you’re in there! I heard the TV! (Mẹ biết con ở trong đó rồi! Mẹ đã nghe thấy tiếng TV rồi!)
I listen to the radio every morning. (Sáng nào tôi cũng nghe radio.)
John: Sự thụ động và chủ động còn được nhắc đến khi muốn biết sự khác nhau giữa See, Look và Watch nữa.
  • See – thể hiện tính thụ động
  • Look và Watch – thể hiện tính chủ động.
Linh: Cách giải thích cũng tương tự như với Hear và Listen. Hãy xét một vài ví dụ cụ thể:
  • Wait, I think I see something! (Đợi đã, tôi nghĩ là tôi thấy cái gì đó) – bất chợt tôi nhìn thấy cái gì đó, tôi không biết trước và cũng không dự kiến sẽ nhìn thấy.
  • I looked at him. He’d changed a lot. (Tôi nhìn anh ấy. Anh ấy đã thay đổi nhiều quá.) – tôi nhìn một cách chăm chú, có chủ định vì đã lâu rồi tôi không gặp anh ấy nên muốn biết anh ấy thay đổi ra sao.
  • I looked out the window and saw him standing right at the door. (Tôi nhìn ra cửa sổ và thấy anh ấy đang đứng ngay ở cửa.) Tôi nhìn ra cửa là có chủ ý, và tôi điều khiển mắt tôi hướng ra cửa nên tôi dùng Look. Tôi không biết trước là sẽ thấy anh ấy, đây là sự việc bất ngờ. Tôi thấy anh ấy chỉ vì tôi nhìn ra cửa sổ thôi, vì vậy tôi dùng See.
John: Riêng đối với Watch, hành động nhìn ở đây tiến thêm 1 bậc nữa thành “xem”, tức là nhìn chăm chú, có chủ đích, theo dõi một quá trình vận động nào đó. Ví dụ như tôi xem một trận bóng, một bộ phim, xem bố tôi sửa xe để học theo…
Linh: Một vài ví dụ:
  • I watch him walk away without any regret. (Tôi nhìn anh ra đi mà không hề hối tiếc).
  • Next time, please stay awake and watch the game from the beginning till the end! (Lần sau thì hãy làm ơn tỉnh ngủ và xem trận đấu từ đầu cho tới cuối nhé!)
John&Linh: Chúc các bạn cuối tuần vui vẻ!
Hẹn gặp lại vào tuần sau!

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2011

Tại sao “nhớ nhà” không phải là “Housesick”?

Trong tiếng Anh, từ House chỉ căn nhà, chỉ một vật thể nhất định, còn từ Home chỉ nơi chúng ta ở hay nơi chúng ta có cảm giác thuộc về.
Linh: A lô, anh John đang ở đâu thế?
John: At home!
Linh: Điêu thế, “at home” mà nghe thấy tiếng xe ầm ĩ thế à. Anh John biết mấy giờ rồi không? Hẹn hò thế này thì chết!
John: Òa!
Linh: Giật hết cả mình, đến từ lúc nào mà Linh không biết thế. Đến muộn thì phải chịu phạt giải đáp thắc mắc của bạn đọc rồi mới được đi.
Bạn Hoa ở địa chỉ hoa***@yahoo.com có nhờ giải thích sự khác nhau giữa “home” và “house” đấy.
John: À, đơn giản thôi bạn Hoa ạ.
House - Chỉ căn nhà, chỉ một vật thể nhất định.
Home - Chỉ nơi chúng ta ở hay nơi chúng ta có cảm giác thuộc về.
2 từ này khác nhau ở mục đích nói, có thể rõ hơn qua các ví dụ:
He’s just bought a doll’s house for his daughter on her birthday.
It’s hard to get new houses in the city. They are extremely expensive.
It’s not hard to build a house for your child; it’s hard to build him a home!
Chính vì sự khác nhau này mà chúng cho có:
Housework - việc nhà: các công việc liên quan đến căn nhà.
Homework - bài tập cho về nhà.
Và chúng ta cũng có Homesick là nhớ nhà chứ không phải Housesick, vì nhớ nhà ý là nhớ gia đình, nhớ nơi chúng ta thuộc về chứ không phải là nhớ cái căn nhà đó.
Nhân tiện hôm nay, John cũng muốn chia sẻ với các bạn về các kiểu diễn đạt khi chúng ta hiểu hoặc không hiểu gì đó thay vì I know, I understand hay I don’t know, I don’t understand.
  
Linh: Hay đấy anh John! Linh cũng biết một số cách diễn đạt như:
Do you get it? ≈ Do you understand?
I get it ≈ I understand
I don’t get it ≈ I’m not following you ≈ I don’t understand
John: Đúng rồi:
I have no idea ≈ I don’t know (hoặc I’ve got no idea)
I don’t have a clue ≈ I don’t know (hoặc I’ve got no clue)
Để nói I don’t know còn rất nhiều cách diễn đạt khác nữa:
You've got me there!
That’s beyond me!
Linh: Anh John à, Linh còn nghe thấy người ta nói “Is that clear?”, “Do I make myself clear?” là sao hả anh?
John: 2 câu đó có cùng ý nghĩa hỏi người khác xem đã rõ về mọi thứ chưa, đã hiểu những gì vừa được trình bày/vừa được nói chưa. Tuy nhiên, câu sau có vẻ hách dịch, bề trên hơn chút xíu. Câu này hồi nhỏ John hay nghe cha hỏi sau mỗi lần John mắc lỗi và bị cha “giảng đạo” (cười).
Is everything clear?
Linh: Yeah, absolutely clear!
John & Linh: Chúc các bạn một buổi chiều vui vẻ!
Xin chào và hẹn gặp lại!

Thứ Năm, 11 tháng 8, 2011

Dùng từ “Just” khi nào?

Trong tiếng Anh, đôi khi từ Just được dùng để làm cho câu nói nghe “mềm” hơn, “xuôi tai” hơn…
Linh: Anh John ơi, có lẽ chúng ta lại dành buổi hôm nay để giải đáp bớt thắc mắc của bạn đọc thôi. Hòm thư john.linh@aac.edu.vn của chúng ta lúc nào cũng trong tình trạng quá tải!
John: Đừng lo Linh ơi, các bạn đọc chắc sẽ thông cảm với chúng ta thôi, John & Linh chỉ có 2 người mà lại có biết bao nhiêu bạn đọc yêu mến và tin tưởng đã gửi thư về bày tỏ tình cảm dành cho chuyên mục cũng như chia sẻ những thắc mắc về tiếng Anh của mình.
Bạn Nga Nguyễn ở địa chỉ nga***@gmail.com có hỏi:
“Sự khác nhau giữa somethings và some things và something như thế nào?”
Bạn Nga thân mến, “some things” là 2 từ riêng biệt: some - một vài, things - đồ vật, điều, việc… (số nhiều, vì đi với some mà).
Something: Một điều gì đó, một việc gì đó; cái gì đó.
Ví dụ:
  • I need some things to complete the task: A knife, a hammer and glue.
Tôi cần vài thứ để hoàn thành công việc: một con dao, một cái búa và keo.
  • There’s something he’s been hiding from us.
Hắn vẫn giấu chúng ta một điều gì đó!
Còn somethings, có lẽ bạn đã có sự nhầm lẫn hoặc ai đó đã sử dụng nhầm lẫn. Somethings có thể là do viết nhầm hoặc do lỗi đánh máy của some things hoặc something’s
Bạn Minh ở địa chỉ ***quocminh@rocketmail.com có thắc mắc:
How to use prefer + to inf. and prefer + V.ing. Is there any difference between them?
Linh: Bạn Minh thân mến, Linh xin được chia sẻ với bạn như sau:
Về mặt ngữ pháp, không có sự khác nhau đáng kể giữa 2 cấu trúc này. Tuy nhiên về mặt ý nghĩa là lại có một chút. Khi muốn nói đến những hành động, sự việc nói chung thì người ta có xu hướng sử dụng prefer + V.ing, khi muốn nói đến một hành động, sự việc cụ thể hoặc trong một hoàn cảnh nhất định thì người ta có xu hướng dùng prefer + to inf.
Để hiểu rõ hơn, bạn hãy tham khảo ví dụ:
  • I prefer swimming to jogging.
Tôi thích bơi lội hơn là đi bộ. (Nói chung là để tập thể dục thì tôi thích đi bơi hơn là đi bộ, vì đi bơi mát mẻ hơn chứ đi bộ thì nóng nực lắm!)
  • I’m feeling a bit tired so I prefer to take a cab rather than walk.
(Bình thường thì tôi thích đi bộ về nhà hơn vì nhà tôi cũng gần đây thôi nhưng do tôi đang hơi mệt nên tôi thích đi taxi về nhà hơn là đi bộ.)
Bạn đọc ở địa chỉ trudylee_baby_lovely@***.com muốn biết:
Sự khác biệt và cách dùng, trường hợp áp dụng của 2 từ JustOnly
John: Câu hỏi này muốn giải đáp hết thì rất khó do thời gian có hạn. John xin trả lời ngắn gọn, tập trung vào những trường hợp hay sử dụng nhất thôi nhé.
Just: Phó từ - vừa mới, vừa đủ, vừa kịp
  • Just in time! (Vừa kịp giờ)
  • I’ve just been back from HCM City. (Tôi vừa mới từ TPHCM về)
Trường hợp hay gây thắc mắc nhất là khi just cũng được dùng với nghĩa là “chỉ”. Sau khi cùng phân tích một vài ví dụ, John nghĩ các bạn sẽ tự nhận ra sự khác biệt:
  • I stopped by his house just to say thanks.
(Tôi qua nhà anh ấy để cám ơn, hành động đó không đáng gì đâu vì anh ấy đã giúp tôi rất nhiều - just ở đây không có “nhiều” nghĩa lắm, nhưng câu nói nghe lịch sự hơn và thuận miệng hơn)
  • I stopped by his house only to say thanks.
(Tôi qua nhà anh ấy chỉ để cám ơn chứ không có mục đích nào khác, không làm gì khác, không ở lại nói thêm chuyện gì, cũng không ở lại ăn cơm…).
  • Can I ask you just one more question?
  • Can I ask you only one more question?
2 câu này mang ý nghĩa như nhau: chỉ thêm một câu hỏi nữa mà thôi chứ không thêm 2, 3 hay nhiều câu. Tuy nhiên, trong tiếng Anh, đôi khi just được dùng để làm cho câu “mềm” hơn, nên câu đầu tiên có vẻ như nghe lịch sự hơn.
Linh: Đúng vậy, just còn được dùng cho câu văn nghe “mềm” hơn, “xuôi tai” hơn:
  • Just go! - Đi đi mà (câu văn nghe mềm hơn, đỡ mang tính chất ra lệnh)
John & Linh: Xin chào và hẹn gặp lại các bạn!

Thứ Năm, 4 tháng 8, 2011

“Trust” khác gì với “Believe”?

Hai động từ TrustBelieve đôi khi cũng được người ta sử dụng thay cho nhau nhưng cũng có những sự khác biệt nhất định.
John: Linh ơi, could you lend me some money? I left my wallet at home. I promise I’ll return it tomorrow!
Linh: Đơn giản thôi mà, no need to promise. I believe that you will because I trust in you!
John: Linh đúng là cứu tinh của anh đấy, vừa mới ăn phở xong mới biết là quên ví, ngượng quá! Để ra trả tiền chị bán phở đã.
Linh: Từ từ đã anh John. Trước khi đi nhân tiện giải đáp luôn thắc mắc của bạn đọc ở địa chỉ ximdo**@gmail.com đã nhé:
Cho em hỏi sự khác nhau giữa 2 động từ Trust và Believe

John: Vừa rồi Linh đã dùng TrustBelieve rất đúng rồi đấy.
2 động từ này đôi khi cũng được người ta sử dụng thay cho nhau nhưng cũng có những sự khác biệt nhất định.
Trước tiên, cần biết rằng Trust mang nghĩa nhấn mạnh hơn Believe. Mức độ “tin” của Trust lớn hơn của Believe.
Trust:
-         Được sử dụng với niềm tin tuyệt đối. Khi bạn Trust someone có nghĩa là bạn tin tưởng vào một người nào đó và từ đó sẽ tin vào những lời nói và hành động của người đó. Nó cũng có nghĩa là bạn nghĩ rằng người đó đáng tin cậy, có thể gửi gắm được (reliable).
-         Sự tin tưởng này thường dựa vào mối quan hệ gần gũi, lâu dài với chủ thể được đề cập.
-         Trust mang tính chất lâu dài, là một niềm tin tồn tại theo thời gian.
Believe:
-         Được sử dụng với những hành động, lời nói hay sự việc cụ thể hơn, không mang tính chất hoàn toàn, không mang tính chất tuyệt đối.
-         Sự tin tưởng này được hình thành dựa vào một lý do, một phán đoán nào đó hay dựa vào những nhìn nhận, đánh giá của bạn hay của một ai đó chứ không dựa vào mối quan hệ gần gũi lâu dài với chủ thể được đề cập.
-         Sự tin tưởng này mang tính chất nhất thời hơn, chỉ gắn với một hành động, lời nói hay sự việc nhất định nào đó.
John: Ví dụ của Linh vừa rồi rất phù hợp để nói lên sự khác biệt giữa Trust và Believe:
I believe that you’ll do because I trust in you.
Believe ở đây là tin rằng hành động “return the money” sẽ được thực hiện dựa trên lý do là do Linh đã tin tưởng vào con người John.
Lý do Linh tin tưởng vào con người John (trust) là dựa vào mối quan hệ gần gũi, thân thiết của John và Linh. Chính vì tin tưởng vào con người John (trust) mà Linh cũng tin vào sự ứng xử, vào hành động của John, trong đó có hành động là “will return the money”.
John: Đấy, Linh đã “hài lòng” chưa? Để anh ra “thanh toán” tiền ăn sáng đã nhé. Chị bán phở cho nợ bởi vì anh là khách quen nên She believes that I will surely pay.
Linh có gì cần thông báo với các bạn độc giả thì thông báo đi không có lại quên bây giờ.
Linh: Đúng rồi, Linh quên mất.
Các bạn độc giả ơi, từ nay đến hết 15/8/2011, các bạn độc giả của John&Linh khi đăng ký khóa học tiếng Anh bất kỳ tại AAC sẽ được tặng giáo trình và đĩa (nếu có). Để nhận được ưu đãi này, các bạn chỉ cần gửi về hòm thư john.linh@aac.edu.vn các thông tin cá nhân của mình là được.
Chúc các bạn ngày một học tốt và sử dụng thành thạo tiếng Anh!
John & Linh: Xin chào và hẹn gặp lại các bạn!

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

Tìm hiểu tiếp về tiếng Anh “hiện đại”

Có một thời, Xerox (thương hiệu máy photocopy nổi tiếng) đã từng được dùng như một động từ. Nếu bạn xerox gì đó, có nghĩa là bạn đang photocopy cái đó!
John: Sau bài viết về Tiếng Anh “hiện đại”, rất nhiều bạn đọc và cả các bạn học viên của AAC đã chia sẻ với John & Linh thêm rất nhiều từ, ngữ mới được hình thành hoặc đang được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày với nghĩa khác với nghĩa nguyên gốc.
Linh: Anh John có biết rằng, ở miền Nam Việt Nam, xe máy đều được gọi là xe Honda không? Xe máy của Honda đã thông dụng đến mức nó trở thành đại diện cho xe máy nói chung.
Có một thời gian, rất nhiều người đã gọi bột giặt với khả năng giặt tẩy mạnh là Omo với câu slogan nổi tiếng “Chuyên gia giặt tẩy vết bẩn”. Ở nhà Linh, đến giờ không còn dùng bột giặt Omo nữa nhưng khi quần áo sáng màu của Linh bị bẩn, mẹ Linh vẫn nói là “Lấy Omo mà giặt là được ý mà”.
John: Đúng vậy, rất nhiều thương hiệu nổi tiếng và đi vào lòng người đến nỗi nó trở thành đại diện cho cả dòng sản phẩm. Thậm chí nó còn trở thành một động từ nữa!


Ví dụ như Google - công cụ tìm kiếm trên mạng lớn và nổi tiếng nhất thế giới. Giờ đây, if you want to know more about something, just google it! Những người sử dụng Google được gọi là googler, những người sử dụng Google nhiều thì được gọi là google minded (adj).
Linh: Ồ, cái này thì phải gọi là Everyone is googling!
John: Có một thời, Xerox (thương hiệu máy photocopy nổi tiếng) đã từng được dùng như một động từ. Nếu bạn xerox gì đó, có nghĩa là bạn đang photocopy cái đó!
Linh: Linh còn biết Hoover là một thương hiệu máy hút bụi (vacuum cleaner) nổi tiếng và giờ đây hoover còn được dùng để chỉ máy hút bụi nói chung nữa đúng không anh John?
John: Linh thật là giỏi!

Linh: À, trong bài viết lần trước anh John có đề cập đến Spamming và một bạn học viên tại AAC đã nhờ Linh giải thích hộ từ Phishing nhưng mà Linh thì chịu rồi. Phishing nghĩa là gì hả anh?
John: Nếu Linh học hoặc làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin thì chắc không lạ gì từ này. Phish (phishes, phishing, phished) có nghĩa là dùng các biện pháp công nghệ bất hợp pháp để lấy các thông tin cá nhân (mật mã, mật khẩu, số tài khoản, thẻ tín dụng…) của người khác trên Internet.
Đây là một từ mà theo John thì được hình thành từ fish (câu cá) là một sự chơi chữ. Vì 2 từ này phát âm hoàn toàn giống nhau chỉ khác về chữ viết. Phishing cũng không khác fishing là mấy, cùng là dùng mồi câu (các trang web giả mạo, các phần mềm do thám…) để câu được cá (các thông tin cá nhân của người khác).
Linh: Cám ơn anh John nhé! Linh không biết Phishing là gì đâu, nếu Linh rủ anh John “Let’s go /´fiʃiη/” thì có nghĩa là rủ đi câu cá, chứ không phải rủ anh John phạm pháp đâu đấy nhé.
John & Linh: Xin chào và hẹn gặp lại các bạn!

Thứ Ba, 26 tháng 7, 2011

Đời đời ghi nhớ công ơn các Anh hùng Liệt sỹ và các bác Thương binh!

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2011

What do you call your father-in-law's only child's mother-in-law?

Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

“Other” có giống với “Another”?

Cả OtherAnother đều có nghĩa là “khác”, tuy nhiên cách sử dụng lại khác nhau. Other đề cập tới một cái gì đó khác biệt, phân biệt giữa cái này và cái kia, còn Another đề cập tới một cái gì đó mang tính chất “thêm vào”.
John & Linh: Xin chào các bạn!
Linh: Hôm nay John & Linh sẽ cùng chia sẻ với các bạn về thắc mắc của bạn đọc ở địa chỉ hoai_nha@***.com đã gửi về hòm thư john.linh@aac.edu.vn:
“Các bạn có thể giúp mình phân biệt từ OTHER, ANOTHER, OTHERS được không? Cảm ơn nhiều!”
John: Cả OtherAnother đều có nghĩa là “khác”, tuy nhiên cách sử dụng lại khác nhau. Có thể trong quá trình bắt đầu đọc, các bạn sẽ chưa hiểu rõ sự khác biệt nhưng khi đọc hết, các bạn sẽ tự có sự so sánh và nhận biết được sự khác nhau.
Linh: Other (the other) - Đề cập tới một cái gì đó khác biệt, phân biệt giữa cái này và cái kia:
-         They have 2 sons. You’ve just met Jack. The other boy, Nick, is even more. intelligent. (Học có 2 cậu con trai. Anh vừa gặp Jack đấy. Thằng bé còn lại, Nick, thậm chí còn thông minh hơn).
John: Others - Other cũng có thể sử dụng như một danh từ, others là dạnh số nhiều, trong những trường hợp không cần thiết phải có danh từ ở sau.
-         Only 2 out of 10 balls are red. The others are all green. (Chỉ có 2 trong số 10 quả bóng là màu đỏ. Các quả còn lại đều màu xanh)
Linh: Another - Được ghép từ An Other, đề cập tới một cái gì đó mang tính chất “thêm vào”:
-         Do you want another drink? (Ông có muốn một cốc nữa không? - Ông đã uống 1 hoặc nhiều cốc rồi, ông có muốn thêm 1 cốc khác nữa không?).
John: Để rõ hơn về sự khác biệt, ta hãy xét các ví dụ:
1.      There are different kinds of fruit in the basket. One is apple, one is pineapple and the other is banana.
2.      There are different kinds of fruit in the basket. One is apple, one is pineapple and another is banana.
Linh: Ở ví dụ 1, người đọc sẽ hiểu là chỉ có 3 loại quả trong giỏ mà thôi. 1 loại là táo, 1 loại là dứa và “loại kia” là chuối.
John: Ở ví dụ 2, người đọc sẽ hiểu là có nhiều hơn 3 loại quả trong giỏ. 1 loại là táo, 1 loại là dứa, 1 loại “nữa” là chuối, còn 1 hoặc nhiều loại khác nữa chưa đề cập tới.
1.      That was question number one. Now, the other is that…
2.      That was question number one. Now, another one is that…
Linh: Tương tự, ở ví dụ 1, người đọc sẽ hiểu rằng người nói đề cập là chỉ có 2 câu hỏi mà thôi còn ở ví dụ 2 thì không.
1.      You take this and I will take the other. (Anh lấy cái này đi và tôi sẽ lấy cái kia)
2.      You take this and I will take another one. (Anh lấy cái này đi và tôi sẽ đi lấy thêm 1 cái nữa)
Tóm lại Other được sử dụng để nói đến những cá thể trong một tập thể xác định còn Another nói đến một sự bổ sung trong một tập thể mà chưa xác định (tương tự như sự khác nhau giữa các mạo từ The - A, An).
John: Một số trường hợp hay dùng:
On the other hand - mặt khác: I’d like more money but on the other hand, I think my health can’t afford to work 2 jobs. (Tôi cũng muốn có thêm thu nhập nhưng mặt khác, tôi nghĩ rằng sức khỏe của tôi không đủ để làm 2 công việc.)
“The others” hay được dùng để chỉ “những người khác, những người còn lại”:
I was sick so I slept all day while the others enjoyed the holiday!
(Tôi bị ốm nên tôi đã ngủ cả ngày trong khi những người khác tận hưởng kỳ nghỉ)
Linh: Each other - dùng với nhóm 2 đối tượng:
My grandparents have been together for more than 50 years and they still love each other as always. (Ông bà tôi đã ở bên nhau hơn 50 rồi mà vẫn luôn yêu thương nhau)
John: One another - dùng với nhóm nhiều hơn 2 đối tượng:
Let’s make groups of five and talk to one another! (Hãy đứng 5 người 1 nhóm và nói chuyện với nhau)
John & Linh: Chúc các bạn ngày một sử dụng thành thạo tiếng Anh hơn nữa.
Xin chào và hẹn gặp lại!

Thứ Ba, 19 tháng 7, 2011

Chương trình khuyến học tháng 7/2011

AAC dành tặng 100% khóa Luyện phát âm chuẩn trị giá $189 cho các học viên đóng học phí khóa 20 hoặc 40 tuần.
Tặng 50% học phí ($94.5) khóa Luyện phát âm chuẩn cho học viên đóng học phí khóa 3 tháng.
Luyện Phát Âm chuẩn là khóa học đặc biệt được giảng dạy bởi 100% GV bản ngữ, là khóa học được thiết kế nhằm sửa những lỗi phát âm "cố hữu" của người Việt Nam nói chung cũng như sửa lỗi phát âm của từng học viên nói riêng, giúp bạn ngày càng gần hơn với giọng Anh chuẩn.
Chương trình được áp dụng từ 20/07/2011 đến hết 30/07/2011.
Không áp dụng với khóa học thiếu niên, trẻ em. Không áp dụng với các chương trình khuyến học khác

Thứ Năm, 14 tháng 7, 2011

“Teetotal” nghĩa là gì?

Dù nghe giống Tea (trà) nhưng Teetotal không có nghĩa là chỉ uống được trà mà không uống được rượu bia.
Linh: Anh John đi đâu về mà mặt đỏ gay thế kia?
John: Vừa đi uống “bia hơi Hà Nội” với mấy bạn ở AAC ấy mà. Anh uống có 1 cốc thôi mà mặt đã đỏ thế này rồi đấy!
Linh: Giờ Linh mới biết đấy, you’re totally teetotal!
John: Linh giỏi ghê nhỉ, cũng biết teetotal cơ đấy! Nhưng mà chưa chắc tất cả các bạn độc giả đã biết đâu. Nếu thật sự giỏi thì Linh thử giải thích cho mọi người đi xem nào.

Linh: Thỉnh thoảng Linh cũng giỏi đột xuất lắm đấy! Teetotal (tính từ) được dùng để chỉ những người không uống được bia rượu (chất cồn). Một người mà teetotal thì còn có thể được gọi là một Teetotaller (danh từ) nữa.
Teetotallism là chủ nghĩa không uống rượu, chủ nghĩa chống uống rượu. Đấy, chuẩn chưa nào!
John: Chuẩn rồi, chuẩn rồi! Nhưng dù nghe giống Tea là trà nhưng Teetotal không có nghĩa là chỉ uống được trà mà không uống được rượu bia đâu nhé.
Anh đúng là một teetotaler, lần này trót ham vui uống một tí mà mệt quá, đi về ngủ đây.

Linh: Chưa về được, trả lời nốt câu này cho Linh đã. Bạn Kieu Le ở địa chỉ kieule**@***.com có nhờ anh giải thích sự khác nhau giữa Day và Date đây này.
John: OK có ngay!
Day:
-         Chỉ các ngày trong tuần (phân biệt thứ 2 hay thứ 3 hay thứ 7 Chủ Nhật…)
-         Chỉ đơn vị thời gian 24 giờ tính từ qua 0h đến trước 24h = 1 ngày.
-         Có thể dùng với số thứ tự để chỉ ngày thứ mấy trong trong một khoảng thời gian nào đó. Ví dụ: The 2nd day of the trip - ngày thứ 2 của chuyến đi hoặc The 3rd day of April - ngày thứ 3 của tháng 4 (ngày mùng 3).
Date:
-         Chỉ một ngày xác định nào đó. Chúng ta đều biết rằng để xác định một ngày nào đó, chúng ta thường gắn nó với ngày, tháng và năm. Vậy Date đề cập đến một ngày xác định trên lịch, phân biệt với tất cả các ngày còn lại (khác với Day là phân biệt với các ngày còn lại trong tuần).
Linh: Để rõ ràng hơn, chúng ta có thể cùng xem qua các ví dụ:
1.      What’s the date today?
Today’s 14th July, 2011.
2.      What’s the day today?
Today’s Thursday.
John: Khi đề cập đến Date, có thể không cần nói năm nếu không gây nhầm lẫn. Trong ví dụ (1) có thể trả lời Today’s 14th July và người nghe sẽ tự hiểu là ngày 14/7/2011 vì thường không nhớ ngày tháng chứ rất ít khi không nhớ đang là năm nào. Trong những trường hợp nói về các sự kiện quá khứ hoặc tương lai, nếu không nói năm nào sẽ dẫn đến hiểu lầm hoặc thông tin không được rõ ràng.
John: Vậy thôi, rất đơn giản. John là một Teetotaller nên mệt quá rồi, phải về nhà đây.
Chào Linh và các bạn đọc thân mến nhé!
John & Linh: Xin chào các bạn!

Thứ Năm, 7 tháng 7, 2011

“Showbiz” là viết tắt của từ gì?

Trong tiếng Anh hiện đại ngày nay, có rất nhiều từ mới được hình thành, hoặc những từ không mới nhưng được hình thành nghĩa mới hoặc cách dùng mới. Blog là một ví dụ. Tương tự như Blog, Showbiz cũng là một từ được sử dụng rất thường xuyên.
Linh: Anh John ơi, cho Linh hỏi chút xíu. Fee với fare tiếng Việt đều có nghĩa là phí nhưng tiếng Anh thì dùng khác nhau mà Linh không biết là khác như nào?
John: Đơn giản lắm Linh ạ! Fee là phí phải trả cho một dịch vụ nào đó nói chung, còn Fare thường chỉ dùng cho vận tải thôi. Một vài ví dụ cho Linh dễ nhớ nhé:
-         My son’s school fee for this coming year is about xyz VND.
(Học phí của con trai tôi cho năm tới là vào khoảng xyz đồng)
-         What’s the bus fare from here to xyz street?
(Tiền vé xe buýt từ đây đến phố xyz hết bao nhiêu tiền?)
-         The entrance fee for new member is xyz VND.
(Phí gia nhập cho thành viên mới là xyz đồng)
-         It’s not free! They will charge you counselling fees.
(Không miễn phí đâu! Họ sẽ thu phí tư vấn đấy.)
-         Train fares usually go up in the high season.
(Giá vé tàu thường tăng khi vào mùa cao điểm.)

Linh: Linh hỏi thêm 1 câu nữa nhé. Linh vẫn hiểu Blog có nghĩa là nhật ký trên mạng, thế nhưng khi tra từ điển thì không thấy từ này. Vậy có đúng Blog là nhật ký trên mạng không?
John: Blog được bắt nguồn từ Web-log nghĩa là các ghi chép trên mạng. Sau đó đã hình thành một từ mới (cho ngắn gọn hơn chăng?) là blog được hiểu như Linh đã nói ở trên.
Trong thời đại công nghệ thông tin bùng phát ngày nay, có rất nhiều từ mới được hình thành, hoặc những từ không mới nhưng được hình thành nghĩa mới hoặc cách dùng mới. Blog là một ví dụ.
John: Tương tự như Blog, Showbiz cũng là một từ được sử dụng rất thường xuyên. Showbiz là viết tắt của Show business.
Một ví dụ về cách dùng được thay đổi đó là với từ Text. Text trước đây thường được sử dụng là một danh từ. Từ thế kỷ thứ 16 còn ghi nhận Text được dùng như một động từ với nghĩa là “viết chữ to” (write in text-hand) nhưng cách dùng này gần như đã bị “tuyệt chủng”. Cho tới vài năm trở lại đây, khi việc nhắn tin bằng điện thoại di động trở thành một hành động quá ư là phổ biến, Text lại được sử dụng như một động từ với nghĩa là “nhắn tin”:
-         Bye bye! I’ll text you later to confirm the time and date.
(Chào nhé! Tớ sẽ nhắn tin thời gian sau nhé)
-         I can’t talk right now, let’s text!
(Tớ không nói chuyện được đâu, nhắn tin nhé!)
John: Bất kể ai dùng thư điện tử cũng biết đến Spam - Thư rác. Nếu bạn nhắn tin một nội dung “vô bổ” cho mọi người (bằng điện thoại hay các phần mềm chat), đó là bạn đang Spam, và chắc hẳn sẽ có ai đó nói với bạn rằng Stop spamming me! Và cũng có thể ai đó sẽ gọi bạn là một Spammer.
Spam ngày trước là một nhãn hiệu thịt hộp rất nổi tiếng và được ưa chuộng. John vẫn còn nhớ đã từng được xem phim hài của Monty Python trong đó có tình tiết là họ cho món thịt này kèm với tất cả các món trong thực đơn, thành một thực đơn “chỗ nào cũng có spam”: bacon and spam, egg and spam, ham and spam, spam and spam… Chắc có lẽ vì nó quá nổi tiếng đến nỗi Spam đã trở thành từ để chỉ những thứ không cần thiết và không được mong đợi nhưng lại được cung cấp nhiều thái quá. Và sau đó, khi internet phát triển, Spam là một lựa chọn rất phù hợp để sử dụng với nghĩa như hiện nay.
Linh: Đúng là cái gì cũng thay đổi liên tục, ngay cả ngôn ngữ cũng vậy nhỉ! Linh thấy câu “Học, học nữa, học mãi” thật là chí lý.
Các bạn đọc thân mến, hãy cùng chia sẻ những từ ngữ, những cách diễn đạt “đời mới” cho Linh và mọi người nhé.
John & Linh: Xin chào các bạn!

Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2011

Các nghĩa của từ “blue”

Hôm trước, John đã hướng dẫn các bạn về các nghĩa của từ “green” trong tiếng Anh. Hôm nay chúng ta cùng học về từ “blue” nhé…
 >> “Green” có bao nhiêu nghĩa?
Linh: Anh John ơi, sau khi đọc bài Green có bao nhiêu nghĩa, một số bạn đã hỏi rằng Blue cũng có thể dùng trong nhiều trường hợp với ý khác nhau phải không. Theo anh John thì sao?
John: Linh muốn hỏi gì thì phải cho anh thời gian để còn suy nghĩ chứ, cứ out of the blue thế này thì phải trả công bằng 2 chầu chè đấy nhé!
Linh: Anh vừa nói cái gì mà out of the blue đấy?
John: À, out of the blue có nghĩa là bất ngờ, là suddenly ý:
-         The sky was very clear but out of the blue, it started to rain.

Có thể dùng giống như vậy còn có out of a/the clear blue sky hoặc nghĩa tương tự nhưng các dùng khác một chút là a bolt from the blue hay a bolt out of the blue. Ý nghĩa của những cách biểu đạt này có thể dễ dàng hình dung như là một cái gì đó (một tia chớp - a bolt chẳng hạn) bất ngờ xuất hiện trên bầu trời đang trong xanh:
-         His resignation was like a bolt from the blue.
Linh: Hay quá nhỉ! Vậy blue còn được dùng trong những trường hợp nào nữa không anh?
John:
-         He is feeling really blue because his girl friend is with some college boy.
(Nó đang cảm thấy rất buồn chán và thất vọng vì bạn gái nó đang theo một cậu chàng sinh viên nào đó rồi)
blue ở đây = buồn, chán nản, thất vọng
-         He was beaten black and blue!
(Anh ta bị đánh đến thâm tím hết cả mình mẩy!)

John: Linh có nghe nói đến white-collar bao giờ chưa?
Linh: À, white-collar worker chỉ những người làm văn phòng, làm bàn giấy đây mà.
John: Vậy còn có cả blue-collarworker là người lao động chân tay, lao động giản đơn nữa đấy.
Rồi còn có blue blood nữa. Những người có blue blood không phải là những người có máu xanh đâu mà có nghĩa là có trong mình dòng máu hoàng gia, hoặc con nhà giàu có, thế lực:
-         Jane has blue blood in her veins - Jane có dòng máu quý tộc chảy trong huyết quản, Jane là con nhà quyền quý.
Linh: Nhiều blue quá anh nhỉ, còn khi còn nhiều hơn cả green nữa rồi đấy!
John: Linh có muốn nghe tiếp không? True-blue có nghĩa là rất trung thành, rất đáng tin cậy:
-         David is true-blue, you can count on him – David rất đáng tin cậy, anh có thể trông cậy vào cậu ta.
Linh có biết cops là gì không?

Linh: À, từ lóng chỉ cảnh sát chứ gì?
Đúng rồi, từ lóng chỉ cảnh sát còn có boys in blue nữa đấy:
-         Hey Tom, what have you done? The boys in blue came last night, asking a lot of questions! (Tom, con lại làm gì rồi? Tối qua cảnh sát đến và hỏi rất nhiều đấy!)
Linh: Thôi, tạm dừng ở đây thôi anh John, cho Linh “thở” chút xíu đã nhé!
John: Ừ, ít ra anh cũng không talk until I’m blue in the face (nói nhiều, nói dai mà không ai thèm nghe) là được!
John & Linh: Xin chào và hẹn gặp lại các bạn!

Thứ Hai, 6 tháng 6, 2011

AAC tổ chức Chương trình học bổng thường niên “Tương lai Vàng” 2011 với tổng trị giá 1 tỷ đồng


Tập đoàn Ngôn ngữ & Kỹ năng AAC thông báo tổ chức Chương trình học bổng thường niên “Tương lai Vàng” 2011. Chương trình nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện nâng cao kỹ năng tiếng Anh cho các đối tượng từ trẻ em (5 tuổi) cho tới người lớn (không giới hạn độ tuổi).
Với tổng trị giá lên tới 1 tỷ đồng, chương trình học bổng “Tương lai Vàng” 2011 được phân bổ cho nhiều nội dung đào tạo khác nhau, đáp ứng khả năng và nhu cầu phong phú của các đối tượng nhận học bổng. Chi tiết xin theo dõi phía dưới.
Để có cơ hội nhận học bổng, những người có nhu cầu có thể đăng ký thi học bổng tại AAC – 65 Quán Sứ, Hà Nội trong thời gian từ 10/06/2011 đến hết 30/06/2011. Sau khi xét tuyển theo khả năng, trình độ, các thí sinh sẽ được xét trao học bổng dựa trên những tiêu chí bổ sung, bao gồm: Mục đích học tập, kế hoạch học tập; Mức độ tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa; Hoàn cảnh gia đình; Kết quả học tập tại trường.
Bà Lê Thị Vân Thơ, Tổng Giám đốc AAC, cho biết: “Với tổng giá trị tương đối lớn, chúng tôi mong muốn chương trình học bổng “Tương lai Vàng” sẽ đem lại cơ hội học tập cho nhiều đối tượng học viên, đặc biệt là cơ hội trau dồi, nâng cao ngoại ngữ trong dịp hè 2011. Cũng thông qua chương trình học bổng này, chúng tôi hy vọng sẽ tạo ra tác động tích cực trong xã hội, để phát huy tốt hơn nữa trong những lần tổ chức sau”.
* Chi tiết phân bổ học bổng của chương trình học bổng “Tương lai Vàng” 2011:
Tổng giá trị 1 tỷ đồng:

Học bổng cho Người lớn:
-      10 suất học bổng 100% cho khóa học Luyện thi IELTS trị giá 8.800.000/suất  (=88.000.000)
-      10 suất học bổng 100% cho khóa học Luyện phát âm chuẩn trị giá 4.000.000/suất  (=40.000.000)
-      50 suất học bổng trị giá 4.400.000đ/suất (giảm 50% học phí) cho học viên đăng ký khóa Luyện thi IELTS (= 220.000.000)
-      50 suất học bổng trị giá 2.000.000đ/suất (giảm 50% học phí) cho học viên đăng ký khóa Luyện phát âm chuẩn (= 100.000.000)

Học bổng cho Thiếu niên:
-      10 suất học bổng 100% cho học viên thiếu niên trị giá 3.300.000đ/suất (= 33.000.000)
-      100 suất học bổng giảm học phí cho học viên thiếu niên (50% học phí) trị giá 1.650.000đ/suất (= 165.000.000)
-      100 suất học bổng giảm học phí cho học viên thiếu niên (30% học phí) trị giá 990.000đ/suất (= 99.000.000)
           
Học bổng cho Thiếu nhi (trẻ em)
-      10 suất học bổng 100% cho học viên thiếu nhi trị giá 2.250.000đ/suất (= 22.500.000)
-      100 suất học bổng 100% cho học viên thiếu nhi trị giá 750.000đ/suất (= 75.000.000)
-      100 suất học bổng giảm học phí cho học viên thiếu nhi (10% học phí) trị giá 225.000đ/suất (= 22.500.000)

Còn lại 135.000.000 dùng để ưu đãi học phí cho các học viên có kế hoạch học tập tiếng Anh dài hạn